☰ Tiếng Anh: fornicate, fornication
Theo Kitô giáo bí truyền, tà dâm chỉ cơn cực khoái tình dục (hay hành động đưa đến cực khoái tình dục) một cách chủ ý không kể trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù là với chồng/vợ, gian dâm hay thủ dâm.
Trong Kinh Thánh Tân Ước từ “tà dâm” là phiên dịch của từ πορνεύω (phiên âm: pôr-nê-vô) trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là “phạm tội tình dục” (động từ). Trong bản gốc, tiếng Hy Lạp, có hai từ nói về các tội tình dục: μοιχεία (phiên âm: mi-xi-a) và πορνεύω (pôr-nê-vô). Từ μοιχεία (Mi-xi-a) nghĩa là “ngoại tình”. Từ πορνεύω (pôr-nê-vô) nói về một loại tội phạm tình dục không rõ ý nghĩa. Một số trường phái Kitô giáo nói rằng “pôr-nê-vô” và “Mi-xi-a” có ý nghĩa giống nhau. Tuy nhiên, trong Kinh Thánh, cả hai từ này hay xuất hiện cùng nhau trong một câu viết. Ví dụ:
Mọi người phải tôn trọng hôn nhân. Chớ biến chốn loan phòng ra ô uế, vì Ðức Chúa Trời sẽ đoán phạt kẻ gian dâm (pôr-nê-vô) và kẻ ngoại tình (mi-xi-a). (Hê-bơ-rơ 13:4)
Trong câu này chúng ta thấy rằng cả hai từ này là tội phạm liên quan đến hôn nhân. Vì tác giả dùng cả hai từ trong một câu viết cho nên chúng ta khó mà nói rằng pôr-nê-vô và mi-xi-a có một ý nghĩa giống nhau. Vì ngày xưa, các thầy không được phép tiết lộ ra cho dân chúng biết các chi tiết về cách tập phép tình dục cho nên ý nghĩa chính xác của từ “pôr-nê-vô” là bí mật riêng của các Điểm Đạo Đồ. Đến ngày hôm nay thì hầu hết các nhà thờ không còn biết ý nghĩa của từ pôr-nê-vô nữa.
Tà dâm là “tội lỗi nguyên thủy”, dẫn đến việc Adam và Eva rời khỏi Eden (Eden theo tiếng Do Thái có nghĩa đen là “phúc lạc”). “Ăn trái của cây tri thức” là tà dâm.
Khi người ta biết đạo bí truyền và tuân theo luật, họ làm việc với lửa nhưng không bị đốt cháy. Những người không biết luật hoặc chối bỏ luật đều bị đốt trong lò. Tà dâm là làm ô uế ngọn lửa của Đức Thánh Linh ngự trong đền thờ của thân xác; ngọn lửa đó là sức mạnh sáng tạo của Ngài: lửa tính dục.
Bất cứ ai được sinh ra bởi Đức Chúa không phạm tội; vì hạt giống của anh ta vẫn còn trong anh ta: và anh ta không thể phạm tội, vì anh ta được sinh ra bởi Đức Chúa. (1 Giăng 3:9)
Tà dâm có nghĩa là làm cho sức nóng (lửa mặt trời) của hạt giống (năng lực tình dục) rời khỏi cơ thể thông qua cực khoái một cách tự nguyện. Bất kỳ cực khoái một cách tự nguyện đều là tà dâm, cho dù giữa một người đàn ông và một người phụ nữ đã kết hôn, hoặc một người đàn ông và phụ nữ chưa kết hôn, hoặc thông qua thủ dâm, hoặc trong bất kỳ trường hợp nào khác; điều này được giải thích bởi Moses:
Một người đàn ông có xuất tinh thì phải tắm cả người trong nước, và anh ta sẽ bị ô uế cho đến tối. Người đó phải giặt bất cứ quần áo và tấm da nào đã dính tinh dịch, chúng sẽ bị ô uế đến chiều tối. Khi một người nam nằm với một người nữ và xuất tinh thì họ phải tắm trong nước và bị ô uế đến chiều tối. – Lêvi 15:16-18
Những người từ bỏ khoái cảm cho cái Tôi và kiềm chế năng lượng tình dục thì sẽ “đi giữa ngọn lửa” mà không bị đốt cháy. Những người kiềm chế năng lượng tình dục, từ bỏ cực khoái, nhớ đến Chúa ở bên trong và không làm ô uế bản thân với niềm đam mê thú vật, “Vì đền thờ của Thiên Chúa là thánh mà chính anh em là đền thờ ấy.”
Đây là lý do tại sao người mới vào đạo luôn thề sẽ kiêng quan hệ tình dục, để họ có thể chuẩn bị cho hôn nhân, trong đó họ sẽ có quan hệ tình dục nhưng không giải phóng năng lượng tình dục thông qua cực khoái. Đây là lý do tại sao Thánh Paul khuyên:
…họ có vợ như thể họ không có … – I Cô-rinh-tô 7:29
Tuy nhiên, tà dâm không giới hạn trong việc sử dụng cơ thể vật chất của chúng ta.
“… Tà dâm không chỉ liên quan đến cơ thể vật lý, nó còn liên quan đến suy nghĩ, cảm xúc, lời nói và cảm giác [mang tính] thú vật.” – Samael Aun Weor, Thuật luyện kim và Kabbalah (Alchemy and Kabbalah)
Nếu không có cực khoái tình dục thì sẽ không xảy ra sự xuất tinh. Như thế thì con người làm sau để sinh con? Thầy Samael Aun Weor giải thích như sau:
Ở kỷ Lemuria, không người nào xuất tinh. Vào thời đó, các cặp đôi kết hợp tình dục với nhau trong đền, chùa để thụ tinh. Trong những khoảnh khắc đó, các thiên thần mặt trăng biết cách dùng một tinh trùng và một trứng để thụ tinh mà không cần cặp vợ chồng đạt đến cơn cực khoái tình dục và xuất tinh. Không ai làm đổ tinh dịch. Cuộc tình dục là một nghi lễ thiêng liêng chỉ được diễn ra ở trong đền chùa. Người phụ nữ ở giai đoạn đó sinh con không hề cảm thấy đau đớn, và con rắn được đưa lên qua ống tuỷ sống một cách vẻ vang. Trong kỷ nguyên đó, con người vẫn chưa rời bỏ Eden. Tất cả mọi thứ trong Tự Nhiên đều phục tùng họ, họ không hề biết đến sự đau khổ cũng như tội lỗi. Chính là những kẻ Lucifer u tối đã chỉ cho con người cách làm đổ tinh dịch. Tội lỗi gốc gác của cha mẹ đầu tiên của chúng ta là tội làm đổ tinh dịch. Đó chính là tà dâm. Khi một con người ở thiên đường tận hưởng cơn khoái cực, anh đã xâm nhập vào vương quốc của Lucifer. Con người của thời đại bây giờ đã bị Lucifer-hoá.
(Hôn Nhân Hoàn Hảo – Samael Aun Weor)

Trong kinh Sáng Thế Ký, chương 3, chúng ta đọc,
Bấy giờ con rắn là con vật quỷ quyệt hơn những sinh vật khác mà Chúa Ðức Chúa Trời đã dựng nên trên đất. Nó nói với người nữ, “Có thật Ðức Chúa Trời bảo, ‘Các ngươi không được ăn trái của bất cứ cây nào trong vườn’ chăng?”
Người nữ trả lời con rắn, “Chúng tôi có thể ăn các trái cây trong vườn; nhưng Ðức Chúa Trời đã dặn, ‘Các ngươi không được ăn trái của cây ở giữa vườn; các ngươi cũng không được đụng đến nó, nếu không các ngươi sẽ chết.’”
Con rắn nói với người nữ, “Các người sẽ không chết đâu, bởi vì Ðức Chúa Trời biết rằng ngày nào các người ăn trái cây ấy, mắt các người sẽ mở ra, và các người sẽ trở nên giống như Ðức Chúa Trời, biết điều thiện và điều ác.”
Người nữ thấy trái cây ấy coi bộ ăn ngon, trông đẹp mắt, và quý, vì nó có thể làm cho người ta khôn ra; nàng liền hái trái cây ấy và ăn, rồi đưa cho chồng nàng đang ở đó ăn. Bấy giờ mắt hai người mở ra; họ nhận biết họ đang trần truồng, nên họ lấy lá vả khâu lại làm khố che thân.
Vào khoảng chiều tối, khi gió thổi hiu hiu, họ nghe tiếng Ðức Chúa Trời đi dạo trong vườn, A-đam và vợ trốn vào giữa lùm cây trong vườn, để tránh mặt Đức Chúa Trời. Bấy giờ Chúa Ðức Chúa Trời gọi A-đam và hỏi, “Ngươi ở đâu?”
Ông đáp, “Con có nghe tiếng Ngài trong vườn và con sợ, nên con lẩn tránh, vì con đang trần truồng.”
Ngài hỏi, “Ai bảo cho ngươi biết ngươi đang trần truồng? Ngươi có ăn trái cây Ta đã truyền cho ngươi không được ăn chăng?”
A-đam đáp, “Người nữ Ngài ban để sống với con, nàng đã cho con trái cây ấy, và con đã ăn rồi.”
Bấy giờ Chúa Ðức Chúa Trời hỏi người nữ, “Ngươi đã làm gì?”
Ngươi nữ thưa, “Con rắn đã gạt con, và con đã ăn rồi.”
Chúa Ðức Chúa Trời phán với con rắn,
“Bởi vì ngươi đã làm điều ấy,
Nên ngươi bị nguyền rủa hơn mọi súc vật và mọi thú rừng.
Ngươi sẽ bò bằng bụng, và ngươi sẽ ăn bụi đất suốt đời.
Ta sẽ để một mối nghịch thù giữa ngươi và người nữ,
Giữa dòng dõi ngươi và dòng dõi người nữ.
Người sẽ giày đạp đầu ngươi, và ngươi sẽ cắn gót chân Người.”Ðoạn Ngài nói với người nữ,
“Ta sẽ tăng thêm nỗi khổ cực cho ngươi trong khi thai nghén;
Ngươi phải chịu đau đớn mỗi lần sinh con.
Dục vọng của ngươi sẽ bị lệ thuộc nơi chồng ngươi;
Nó sẽ có quyền trên ngươi.”Ngài cũng nói với người nam,
“Vì ngươi đã nghe lời vợ mà ăn trái cây Ta đã truyền, ‘Ngươi không được ăn,’
Nên đất sẽ vì ngươi bị nguyền rủa;
Suốt đời ngươi, ngươi phải làm lụng vất vả mới có ăn.
Gai góc và bụi gai sẽ mọc lên cho ngươi;
Ngươi sẽ ăn hoa màu của ruộng đồng.
Ngươi phải đổ mồi hôi trán mới có cơm bánh để ăn,
Cho đến khi ngươi trở về cùng bụi đất, vì ngươi đã ra từ bụi đất;
Ngươi là cát bụi, nên ngươi sẽ trở về cùng cát bụi.”A-đam gọi vợ ông là Ê-va, vì bà là mẹ của cả loài người. Chúa Ðức Chúa Trời lấy da thú làm y phục cho A-đam và vợ ông, rồi mặc cho họ.
Ðoạn Chúa Ðức Chúa Trời phán, “Nầy, con người đã trở thành một bậc như Chúng Ta, biết điều thiện và điều ác. Vậy bây giờ hãy coi chừng, kẻo nó đưa tay hái trái cây sự sống và ăn, rồi được sống đời đời chăng.” Vậy Chúa Ðức Chúa Trời đuổi loài người ra khỏi Vườn Ê-đen, để cày cấy đất đai là thứ đã được dùng để dựng nên loài người. Thế là Ngài đuổi loài người ra khỏi vườn. Ở phía đông của Vườn Ê-đen, Ngài đặt các thiên thần chê-ru-bim và một thanh gươm sáng lòa, liên tục biến chuyển mọi hướng, để canh giữ con đường đến cây sự sống.
(Sáng Thế Ký, chương 3, Kinh Thánh)