✏Tác giả: Samael Aun Weor
Bài viết này được trích từ chương IV của sách “El Misterio del Áureo Florecer”

Cây giáo Huyền bí của Chén Thánh [1] và cây giáo của các Hiệp ước trên tay Wotan [2] đều là cùng một ngọn giáo thiêng mà tất cả các tộc người từ thời xa xưa nhất đều tôn thờ.
[1] Cây giáo Huyền bí của Chén thánh (tiếng Anh: Christic Esoteric Lance of the Holy Grail) được gọi là Cây giáo Thiêng của Longinus. Truyền thống Kitô giáo nói đó là cây giáo đã đâm vào Chúa Giê-su ở trên cây Thánh giá.
[2] Cây giáo của các Hiệp ước – Wotan (hoặc Odin) là vua của các vị thần trong tôn giáo cổ xưa của các dân tộc Bắc Âu. Trong Ca Kịch “Das Rheingold” của Wagner, các hiệp ước được khắc lên cây giáo thần kỳ của Wotan.
Các mệnh phụ La Mã ngày xưa, những người được nữ thần Juno thiêng liêng bảo hộ, đã được gọi là Curetis, Cauretes hay Kyrias. Đó là gốc của từ Valkyries. [Tên gọi này xuất phát từ] Cures hay Turris [tiếng Việt: Tháp], là tên của thành phố người Sabine được thành lập bởi những vị thần cao siêu như Medio, Fidio và Himella. Và đó là lý do mà các thủ lĩnh và những người đàn ông khác của Curias La Mã, những người được coi là anh hùng chiến tranh, thường được ban thưởng một ngọn giáo sắt nhỏ gọi là Hastapura. Cái tên này gợi nhắc về thành phố Hastinapura [3], biểu tượng thần thánh của thành phố Jerusalem trên các cõi siêu việt [4].
[3] Hastinapura – Trong thiên hùng ca Mahabharata, Hastinapura là thủ đô của vương quốc Kuru. Đến bây giờ vẫn có một thành phố Hastinapur ở Ấn Độ.

[4] Thành phố Jerusalem trên các cõi siêu việt – Truyền thống đạo Do Thái cho rằng thành phố Jerusalem tồn tại ở trên cõi vật chất cũng như ở trên cõi trời. Thành phố Jerusalem ở cõi vật chất là bản sao không hoàn hảo của một thành phố nguyên mẫu ở trên trời. Ở đây tác giả đang phân tích về thành phố Hastinapura một cách tương tự.
Bất kể là vì ngọn giáo này mang tượng hình dương vật và biểu trưng cho sức mạnh tình dục của đàn ông, hay vì nó là thứ vũ khí chiến đấu cổ xưa mà loài người có thể tưởng tượng ra trong buổi bình minh của lịch sử, thì sự thật là ngọn giáo La Mã (Kyrie) phần nào tương tự như cán cân công lý chủ trì tất cả các sự kiện pháp lý của hệ thống luật cổ xưa nhất của đế quốc La Mã. Nó được coi trọng trong đám cưới của những người công dân La Mã.
“…vel quia matronae Junonis Curitis in tutela sint, quae ita appellabatur a ferenda hasta, quae lingua Sabinorum Curis dicebatur…” —Festus [5]
“Nec tibi, quae cupidae matura videbere matri, comat virgineas hasta recurva comas..” —Ovid, Fasti 2 [6]
“Hasta pura dicitur, quae fine ferro est, et signum est pacis. Hae donabantur militis, qui in bello fortiter fecissent.” [7]
“Translatae hastae dicuntur argumenta oratoria.” – Calepinus [8]
“Quos in hastario vectigales habetis.” —Tertullian, Apologeticum c. 13 [9]
“Ponitur etiam pro auctione, incanto, quia auctio cum esset, hasta erigebatur.” – Calepinus, hasta [10]
[5] “… hay là vì các mệnh phụ đang được nữ thần Juno Curis bảo hộ. Juno Curis có tên như vậy bởi vì nữ thần này cầm một ngọn giáo mà người Sabine gọi là Curis…” – Festus
[6] “Hỡi trinh nữ, người sẽ được mẹ coi là sẵn sàng cho tình yêu, đừng để cho cây giáo cong chải tóc con.”
[7] “Một ngọn giáo có mũi bằng sắt được coi là tinh khiết và là một biểu tượng của sự hoà bình. Nó được ban tặng cho những người lính anh dũng trong trận chiến.”
[8] “Từ ‘ngọn giáo’ tượng trưng cho lý lẽ.” – Calepinus
[9] “Bọn mày mua bán các vị thần của mình ở những phiên đấu giá.”
[10] “Tôi bảo: một ngọn giáo cũng được sử dụng tại phiên đấu giá vì người ta giơ ngọn giáo lên khi có phiên đấu giá.”
Rõ ràng có thể thấy được rằng những tấm bảng mà nhà tiên tri Môi-se đã ghi lại Mười Điều Răn theo lệnh của đức Giê-hô-va thực tế không gì khác hơn là một đôi cây giáo có khắc các ký tự rune [11]. Ý nghĩa dương vật của [các cây giáo như thế] đã được ghi nhận rộng rãi.
[11] Cây giáo, chữ rune (tiếng Anh: Runic Lance, Rune Spear) – Rune là hệ thống chữ viết cổ của người Bắc Âu. Chữ rune được sử dụng chủ yếu để khắc lên vật thờ hoặc để làm bùa chú.

Ta cần nhấn mạnh ý tưởng tiên nghiệm rằng có hai điều răn nữa trong giáo lý huyền bí của Môi-se. Tôi đang nói về điều răn thứ mười một và mười hai có liên quan mật thiết với Ẩn số 11 và 12 của Kabbalah [12].
[12] Ẩn số 11 và 12 – là lá ẩn chính số 11 và 12 của Tarot. Ẩn chính Tarot có 22 lá bài tương ứng với 22 chữ viết trong bảng chữ cái tiếng Do Thái. Vì thế mà tác giả gọi ẩn chính Tarot là ẩn chính Kabbalah.
Điều đầu tiên trong hai điều răn bí ẩn này, nghĩa là điều thứ mười một, được diễn tả bằng một câu cổ điển trong tiếng Phạn: “Dharmam chara“, nghĩa là “Hãy thực hiện bổn phận của ngươi“.
Độc giả thân mến, hãy nhớ rằng bổn phận của các bạn là phải tìm kiếm con đường thẳng, hẹp và khó khăn, đó là con đường dẫn đến ánh sáng [13].
[13] Hãy vào cổng hẹp, vì cổng rộng và đường thênh thang dẫn đến sự hủy diệt và có nhiều người đi vào đó; còn cổng hẹp và đường chật thì dẫn đến sự sống và chỉ ít người tìm được. (Ma-thi-ơ 7:13-14, Kinh Thánh)
Lá Ẩn chính số 11 của Tarot làm sáng tỏ bổn phận này: về cơ bản, sức mạnh phi thường có thể chế ngự và nắm giữ những con sư tử của nghịch cảnh chính là sức mạnh của tâm linh. Vì lý do này, ẩn này được thể hiện bằng hình ảnh một người phụ nữ xinh đẹp dùng đôi tay dịu dàng của mình mở ra bộ hàm khủng khiếp của Leo, con báo gớm ghiếc, con sư tử hung dữ, mà không cần dùng đến sức lực gì bên ngoài.
Điều răn thứ mười một có liên quan và kết hợp với điều răn thứ mười hai về luật của Đức Chúa Trời, được minh họa trong lá Ẩn chính số 12: “Con hãy làm cho ánh sáng của mình chiếu rọi“.
Đây chính là ánh sáng cấu thành nên Tinh Chất, vốn đang bị giam hãm trong cái Tôi. Để ánh sáng này thực sự có thể tỏa ra và chiếu rọi thì nó phải được giải phóng. Điều này chỉ có thể thực hiện được bằng cách làm tan rã cái Tôi, mà Phật giáo gọi là sự Đoạn Diệt.
Chúng ta cần chết đi trong từng khoảnh khắc, trong từng giây phút. Cái mới chỉ có thể đến khi cái Tôi đã chết đi.
Cũng giống như cuộc sống đại diện cho một quá trình ngoại hiện hay hướng ngoại từng bước một và ngày càng hoàn thiện hơn, thì cái chết của cái Tôi là một quá trình nội hóa từng bước một, trong đó Tâm Thức của cá nhân, hay là Tinh Chất, từ từ trút bỏ những vỏ bọc vô dụng của nó, giống như nữ thần Ishtar dần dần trút bỏ y phục của mình trong chuyến đi xuống Hạ giới, cho đến khi nó [Tinh Chất] hoàn toàn trần trụi đối diện với Thực Tại Vĩ Đại của cuộc sống, tự do trong chuyển động của chính mình.
Cây giáo, tình dục, biểu tượng dương vật, cả ba đều đóng một vai trò quan trọng trong nhiều truyền thuyết phương Đông như là một công cụ cứu rỗi và giải phóng kỳ diệu. Khi được sử dụng một cách khôn ngoan bởi tấm lòng cầu đạo, công cụ này có thể tiêu trừ thành tro bụi vũ trụ tất cả những thực thể u tối đang tạo nên cái Tôi như một tổng thể đầy tội lỗi.
Tại vùng đất linh thiêng của kinh Vệ Đà, Shiva – Ngôi lời Thứ Ba (năng lượng tình dục) – đã được phân tích một cách sâu sắc về các khía cạnh mang tính sáng tạo và hủy diệt của nó.
Hiển nhiên, rõ ràng và có thể dễ thấy rằng các khía cạnh tình dục mang tính chủ quan đã được kết tinh một cách nguy hiểm thành những thực thể mà khi hợp lại sẽ tạo thành cái mà người Ai Cập gọi là Seth (cái Tôi).
Sức mạnh sinh sản thông thường của các tuyến nội tiết sinh dục là không phải bàn cãi.
Còn sức mạnh sáng tạo khách quan của Đấng Shiva là siêu việt, khi ngài tạo ra Bộ Áo Cưới của Linh hồn, còn gọi là To Soma Heliakon, cơ thể vàng của con người dương tính.
Năng lượng tình dục kỳ diệu và rất dễ bùng nổ. Thực sự, thầy nói với các bạn, ai biết cách sử dụng vũ khí của Eros (cây giáo, tình dục) thì người đó có thể làm tiêu biến cái Tôi đa nguyên thành cát bụi vũ trụ.
Cầu nguyện tức là nói chuyện với Đức Chúa, và ta phải học cách cầu nguyện trong khi giao hợp. Trong những khoảnh khắc hoan lạc tột đỉnh đó, hãy xin thì sẽ được cho, hãy gõ thì cửa sẽ mở [15].
[15] Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ thì cửa sẽ mở.
(Ma-thi-ơ 7:7, Kinh Thánh)
Ai hết lòng khẩn nài và cầu xin Thánh Mẫu Kundalini của họ để Mẹ cầm lấy vũ khí của Eros thì sẽ thu được kết quả tốt nhất, vì khi đó Mẹ sẽ giúp [người đó] tiêu diệt cái Tôi. Tuy nhiên, thầy phải nói với các bạn rằng đó là một quá trình lâu dài, nhẫn nại và rất tinh tế.
Rõ ràng là kẻ nào đi săn mà muốn đuổi bắt mười con thỏ cùng lúc thì sẽ trắng tay. Cũng như thế, người nào muốn loại bỏ hết mọi khiếm khuyết tâm cùng một lúc thì sẽ không loại bỏ được cái nào cả.
Có hàng ngàn khiếm khuyết bên trong mỗi chúng ta, và tất cả những khiếm khuyết ấy đều có nhiều gốc rễ và khía cạnh ẩn giấu giữa những nếp gấp tiềm thức của tâm trí.
Bên trong những sinh vật chìm sâu trong tâm trí chúng ta đó, Phật tính (Tâm thức) đang bị giam hãm.
Nếu chúng ta muốn loại bỏ bất kỳ khiếm khuyết nào thì điều kiện tiên quyết là chúng ta phải hiểu tường tận về chúng.
Nếu bạn chắc chắn mình đã hiểu thì hãy khẩn cầu, và hãy rút khỏi trạng thái giao hợp mà không làm xuất tinh ra ngoài.
Sau khi đã làm một bài tổng hợp tiên nghiệm của nhiều công trình [nghiên cứu] vô cùng lâu dài và gian khổ, chúng ta có thể nói rằng: Đầu tiên, ta phải giải phóng Phật tính để ánh sáng có thể chiếu rọi bên trong chúng ta. Sau đó, Phật tính phải được hợp nhất với Atman (Bản Thể), để giải phóng chúng ta khỏi tâm trí. Rồi Phật tính phải được dâng hiến cho Đấng Thượng Cổ (Đức Cha bí mật hay còn gọi là Đơn tử), để trở thành những bậc Thầy hoàn hảo và được Phục sinh. Cuối cùng, Phật tính phải được hấp thu hoàn toàn trong Ishvara, hay là Ngôi lời, đó là yếu tố phát ra đầu tiên từ Parabrahman tối cao (Đại dương vĩ đại của Linh hồn chung của Sự sống).
Chúng ta kết thúc chương này với một câu chuyện như sau. Rất lâu về trước, khi thầy còn chưa tiêu biến cái Tôi thành tro bụi, thầy đã thực hiện một câu thần chú phép thuật mạnh mẽ. Tôi đã kêu gọi một bậc thầy vĩ đại bằng cách hô lên “Đến đây! Đến đây! Đến đây! Hỡi nhà tiên tri của Ra-Hur-Khu, hãy đến với tôi! Hãy đáp ứng! Hãy đáp ứng! Aum… Aum… Aum…” (phát âm từ cuối cùng này như sau: mở miệng ở âm A, làm tròn ở âm U và khép lại ở âm M).
Phải nói là lúc đó bầu không khí đã đạt được đỉnh điểm hài hòa vô hạn, được tích đầy lực “OD”.
Lời cầu khẩn có hiệu nghiệm tức thì, nhà tiên tri vĩ đại đã đến với tôi.
Kabir [16] đã hiện thân trong một dáng vẻ mang tính biểu tượng to lớn mà thầy có thể nhìn thấy, nghe được, chạm vào, và cảm nhận xuyên suốt toàn bộ Bản Thể vũ trụ của thầy.
[16] Kabir (tiếng Ả rập, tiếng Hindi) là “Bậc Thầy Vĩ đại”
Vị Thầy đáng kính dường như bị chia làm hai nửa: Từ thắt lưng trở lên, ngài tỏa sáng rực rỡ; trán ngài cao như những bức tường bất diệt của Thánh địa Jerusalem trên cõi trời; tóc ngài như sợi len trắng rơi trên tấm lưng không tì vết; ngài có sống mũi thẳng như của một vị thần; đôi mắt sâu và xuyên thấu; bộ râu ngài quý giá như của Đấng Thượng Cổ; đôi tay như những đóa huệ dạ hương lồng nhẫn vàng; đôi môi ngài như hoa loa kèn tỏa hương thơm ngát.
Tuy nhiên, từ thắt lưng ngài trở xuống thì thầy nhìn thấy một điều lạ thường; những hình dạng súc vật kinh hoàng, những khiếm khuyết được nhân cách hóa, những con quỷ đỏ, những con quỷ của cái Tôi đang giam giữ Tâm Thức bên trong.
“Ta đã thỉnh cầu các ngài sự khai sáng“. Đó là lời cầu xin của tôi! Rõ ràng là câu trả lời đã được thể hiện ngay trên dáng dấp của ông ấy.
Vị trưởng lão đặt tay phải lên đầu thầy và nói, “Hãy gọi ta mỗi khi con cần, và ta sẽ ban cho con sự khai sáng“. Sau đó, ngài ban phước cho tôi và rời đi.
Tôi đã hiểu ra mọi thứ trong mừng vui vô hạn. Chỉ khi ta dùng cây giáo để loại bỏ những loài súc sinh mà ta đang mang trong mình, những loài thú bao vây lấy Tâm Thức đang ngủ say, thì khi đó sự khai ngộ mới đến với ta.