✏ Tác giả: Samael Aun Weor
Tiêu đề của bản gốc: La Seriedad en el Trabajo Esotérico y la Anormalidad de la Psiquis (bài giảng)
Thưa các anh chị em thân mến của thầy, trước hết ta cần phải biết rằng điều duy nhất chúng ta tìm kiếm trên thực tế là sự khai ngộ của Bản Thể trong sâu thẳm.
Có một lần thầy đang nói chuyện với hiệu trưởng của một trường học, người này thầy không tiện nêu tên, và thầy đã hỏi ông ấy một câu. (Hiện giờ ông ấy đã qua đời về mặt thể xác rồi.) Câu trả lời của ông ấy đã khiến thầy khá thất vọng:
“Không, ở đây chúng tôi không tìm kiếm sự khai ngộ của Bản thể trong sâu thẳm như vậy, đó không phải là điều chúng tôi quan tâm. Cái chúng tôi muốn là làm cho tâm trí mạnh mẽ, chúng tôi muốn đạt đến sự hài hòa trong cuộc sống, v.v. và v.v.”
Tóm lại, ông ấy chỉ toàn đưa ra những lời đánh trống lảng đáng tiếc. Thầy tự hỏi rằng: Tại sao phải nghiên cứu những cái này nếu chúng ta không tìm kiếm sự khai ngộ của Bản thể trong sâu thẳm? Làm vậy vì mục đích gì? Chỉ là để làm ta sao lãng hay để giải trí thôi sao?
Nhưng trong thế giới trần tục có quá nhiều thứ để vui chơi giải trí, chẳng hạn như rạp chiếu phim, đấu trường bò tót, v.v. Vì vậy, trước hết chúng ta phải thật sự nghiêm túc.
Có rất nhiều trường phái giả bí truyền và giả huyền học rẻ tiền, nhưng thật khó để tìm được người nghiêm túc. Nếu chúng ta có thể kêu gọi được năm triệu người ở ngay Mexico, những người đang đi theo các trường phái giả bí truyền hay giả huyền học rẻ tiền ấy, nếu quả thực chúng ta có thể kêu gọi được họ đi theo con đường tâm linh, nếu chúng ta có thể đưa ra trước mặt họ những nguyên lý cơ bản của Gnosis, nếu ta dạy cho họ con đường khai ngộ nội tâm là gì, thì thầy chắc chắn rằng hầu hết bọn họ sẽ bỏ chạy đầy kinh hãi.
Nhiều người trong số họ là các chuyên gia thông thiên học, hoặc theo các trường phái Rosicrucian giả, v.v. Tiếc là để tìm được người nghiêm túc thì rất khó. Tất cả bọn họ đều đang tìm kiếm một hình thức mua vui, hầu hết những kẻ ra vẻ thông thái của các trường phái giả huyền học rẻ tiền, về cơ bản những gì họ muốn chỉ là một sự xao lãng để tìm vui. Rồi khi ta thực sự đưa ra thảo luận với họ các nguyên lý về sự khai ngộ của Bản thể và mời họ làm việc, thì họ lại hoảng sợ bỏ chạy. Như thế, cái thứ họ đang tìm kiếm không phải là sự khai ngộ Bản thể mà chỉ là một kiểu mua vui nào đó mà thôi.
Trước hết chúng ta phải là những người nghiêm túc. Thầy không thể gọi một người không quan tâm đến việc khám phá bản thân hay không quan tâm đến việc thấu hiểu bản thân là một người “nghiêm túc” được.
Người xưa từng nói: “Homo, nosce te ipsum” [1] [Câu đầy đủ là] “Con người, hãy biết chính mình, và ngươi sẽ biết được cả vũ trụ và các vị thần“.
[1] Homo, nosce te ipsum – đây là phiên dịch tiếng Latin của một câu viết được khắc lên đền thờ Apollo cổ xưa ở thành phố Delphi. Ý nghĩa là “Con người, hãy biết chính mình”.
Nếu không biết chính mình thì làm sao ta có thể biết thế giới cảm xúc được? Nếu không biết tâm trí của chính mình thì làm sao ta có thể thực sự biết được tâm trí phổ quát được? Nếu không biết tới những nguyên nhân gây ra những khiếm khuyết tâm lý của chính mình thì làm sao ta có thể biết được thế giới của những căn nguyên tự nhiên được?
Người ta nói nhiều về các “thế giới nội tại”, nhưng nếu một người không biết đến thế giới bên trong của chính mình thì làm sao người ta có thể biết đến thế giới bên trong của Trái Đất, hay của hệ Mặt Trời, hay của thiên hà mà người đó đang sống, hoặc của vô cực được?
Chúng ta phải nghiêm túc! Trong trường phái giả bí truyền và trường phái giả huyền học rẻ tiền, có rất nhiều ông đồng bà cốt. Ở Venezuela có một đền thờ với một bà đồng XX. Khi rơi vào trạng thái lên đồng, bà ấy bắt đầu “ban điểm đạo”. Bà ấy nói: “Người này đạt đến điểm đạo cấp bốn”, “Người kia đã đạt đến điểm đạo cấp năm”, “Người nọ đã là một đại tư tế [Hierophant]”, và những điều kỳ quặc giật gân như thế.
Chúng ta thực sự cần phải nghiêm túc, rất nghiêm túc. Rõ ràng là những người chấp nhận một trật tự như thế trong Lumisial [2] thì không thể hoặc không phải là những người nghiêm túc, và đối với thầy thì một người nghiêm túc không thể chấp nhận những điều vô lý như vậy.
[2] Lumisial là tên gọi của các thánh đường nhỏ thuộc trường phái Gnosis.
Nhiều người mong muốn được điểm đạo. Một ông đồng bà cốt nào đó phán rằng “Người này đã ở trong điểm đạo cấp năm, và là một Mahatma.” Với người khác thì lại phán rằng người ta đã ở trong điểm đạo cấp sáu và rằng ngày hôm sau họ sẽ đạt được điểm đạo cấp bảy”. Thật là thiếu nghiêm túc, thiếu nghiêm túc! Làm sao một người biết được các thế giới nội tại [3] nếu anh ta chưa biết thế giới bên trong của chính mình?
[3] Các thế giới nội tại – các cõi trời và địa ngục
Chúng ta muốn những hiện thực khách quan chứ không phải những giấc mơ vô lý và rời rạc. Thầy không thể chấp nhận những giấc mơ được, thầy muốn hiện thực khách quan và thầy hy vọng tất cả các bạn có được điều đó. Những hiện thực khách quan đó đều khả thi khi ý thức đã thực sự được khách quan hóa. Nhưng ý thức không thể được khách quan hóa nếu ta chưa thực sự trải qua “Đoạn diệt của Phật giáo”, một từ khủng khiếp gây hoang mang cho một số trường phái.
Ở các trường phái đồng cốt, có những điều vô lý kinh khủng: người ta ngủ mê mà tưởng rằng mình đang tỉnh thức, và điều tồi tệ nhất là họ mộng tưởng, họ mơ thấy mình đang tỉnh thức. Những người mơ ngủ kiểu tiêu cực đó, những người kiểu đồng cốt đó, hay ta có thể nói là những người hoang tưởng đó, họ phóng chiếu giấc mơ của mình lên người khác và nhìn ra ở người khác những điều tiêu cực, vô lý và ngớ ngẩn trong chính giấc mơ của mình. Đó là thực tế phũ phàng!
Anh em thân mến, rõ ràng là chúng ta phải hiểu học thuyết về cái Tôi đa nguyên. Một số người nói rằng thầy đã lấy học thuyết về cái Tôi đa nguyên từ ông Gurdjieff, và rằng làm sao mà thầy, Avatar của Kỷ Bảo Bình, lại có thể lấy học thuyết này từ ông ấy được. Họ đã nhầm, thầy không lấy học thuyết này từ Gurdjieff và Gurdjieff cũng không phải là tác giả của học thuyết này. Gurdjieff đã lấy nó từ Tây Tạng, đó là một học thuyết Tây Tạng. Còn thầy lấy học thuyết này từ Ai Cập của các Pha ra ôn, thầy đã biết đến nó khi ở Ai Cập. Thầy cũng đã biết đến nó qua nhiều trường phái cổ xưa. Những người đầu tiên dạy nó là các Avatar của kỷ Lemuria. Như vậy, Gurdjieff đã lấy nó từ Tây Tạng còn thầy thì lấy nó từ Ai Cập.
Người Ai Cập chúng tôi (và thầy nói “người Ai Cập chúng tôi” bởi vì thầy là người Ai Cập, và mặc dù có vẻ khó tin nhưng bộ não mà thầy đang dùng để suy nghĩ và nói chuyện này đã ở dưới lòng đất 4.000 năm rồi) đã biết rằng Horus (ngày xưa chúng tôi không phát âm là Horus, mà là Aurus) đã bị những con “Quỷ đỏ của Seth” bắt đi. Bằng cách nói này, chúng tôi chỉ đơn giản muốn nói, muốn giải thích cho những người học trò của chúng tôi, rằng những con “Quỷ đỏ của Seth” đã bắt giữ tâm thức của con người.
[3.1] Quỷ đỏ của Seth – thầy đề cập đến truyện thần thoại Ai Cập.
Thầy không nghĩ rằng việc lấy nó từ Ai Cập là cái gì đó sai trái, chỉ là ở Ai Cập cổ đại vào thời của các Pha ra ôn, cái Tôi không được gọi là Ego. Ego là một thuật ngữ Latinh. Cái Tôi đa nguyên được gọi là Seth. Tất cả các cấu trúc tâm lý mà người Tây Tạng đã đề cập đến (không chỉ riêng gì ông Gurdjieff) được gọi chung là “các quỷ đỏ của Seth”. Những học trò từ khắp Thượng nguồn và Hạ nguồn sông Nile đều hiểu điều này một cách thông suốt và tất cả chúng tôi nói chung đều chiến đấu chống lại Quỷ đỏ của Seth. Rõ ràng, ý thầy là chống lại những cái Tôi hiện thân của các lỗi lầm. Theo đúng ngôn ngữ Tây Tạng thì thầy phải nói là chống lại những “cấu trúc tâm lý” hiện thân cho những lỗi lầm của chúng ta.
Ở Tây Tạng, học thuyết về cái Tôi đa nguyên là nền tảng của Phật giáo Mật tông. Ông Gurdjieff, người từng là lạt ma ở Tây Tạng, chắc chắn đã lấy học thuyết này từ đó để truyền bá ở thế giới phương Tây.
Ở Tây Tạng, trong dãy Himalaya, cũng có một số Bồ Tát sa ngã. Nhiều khi các Lanoo [4] (tức là các đệ tử) của họ đã phải nhẫn nại cả ngày để chịu đựng các cấu trúc tâm lý khác nhau cứ lần lượt lướt qua và điều khiển cơ thể của những lạt ma đó, những lạt ma sa ngã, những Bồ Tát sa ngã.
[4] Lanoo – Trong tác phẩm “The Voice of Silence” và “The Secret Doctrine”, H. P. Blavatsky sử dụng từ này để chỉ đệ tử của một vị thầy tâm linh.
Giáo lý của cái Tôi đa nguyên rất nổi tiếng ở Tây Tạng, và khi nói ta phải tiêu diệt các cấu trúc tâm lý là hiện thân cho những sai lầm của chúng ta thì người Tây Tạng diễn đạt như sau:
Đức Phật nội tâm phải phá hủy cái Tôi đa nguyên ngay bên trong chính mình, tức là, để chấm dứt những yếu tố phi nhân tính mà chúng ta mang trong mình.
Nhưng các đệ tử đó có đủ kiên nhẫn để chịu đựng những điều phi lý [của các vị lạt ma sa ngã đó], chờ đợi đến khi cuộc diễu hành của các cấu trúc tâm lý kết thúc và cuối cùng vị lạt ma – người đạo sư thực sự xuất hiện, dù chỉ trong giây lát; thế là họ nhận được những lời dạy mà họ mong chờ từ vị thầy đó. Rồi vị thầy đó rút lui và những cái Tôi lại tiếp tục hành hạ các đệ tử tội nghiệp.
Chấm dứt chủ nghĩa cái Tôi đa nguyên trong chính mình không phải việc dễ dàng, giống như cách người Ai Cập cổ đại chúng tôi đã nghĩ và sẽ luôn nghĩ như vậy. Chúng ta phải giết chết các con quỷ đỏ của Seth; tinh chất bị giam hãm bên trong chúng. Trong số những tín đồ của Chán [(禅), tiếng Việt: Thiền tông] và Zen thì tinh chất ấy được gọi với một cái tên khác. Nó được gọi là “Phật tính”. Do đó, các bạn có thể thấy rằng Giáo lý này không phải là tài sản độc quyền, không phải của riêng ông Gurdjieff cũng không của bất kỳ ai. Giáo lý này là một tài sản chung.
Phật tính hay “vật liệu tâm lý” mà chúng ta mang trong mình mới là điều quan trọng, nó chính là tinh chất bị mắc kẹt trong những con quỷ đỏ của Seth, bị nhốt bên trong các “cấu trúc tâm lý”. Ta cần phải phá vỡ từng “yếu tố không mong muốn” mà chúng ta mang trong mình, để giải phóng tinh chất. Chỉ bằng cách này thì chúng ta mới có thể hợp nhất bản thân mình và thực sự trở thành những cá thể linh thiêng.
Chúng ta biết rõ rằng để làm tan rã các cấu trúc tâm lý thì ta phải hướng ngọn giáo về phía chúng. Đạo sư vĩ đại Richard Wagner đã chỉ dạy điều này một cách rất rõ ràng, mặc dù ông bị đánh giá thấp bởi những người ngạo mạn theo thuyết huyền học rởm, những kẻ tự cho rằng mình thấu suốt mọi sự trên đời. Trong vở ca kịch Parsifal của mình, Richard Wagner đã đưa ra một bài học phi thường về huyền học Tantra. Nhân vật Parsifal của ông chính là biểu tượng của Đấng Kitô Nội tâm hoặc Đấng Giê-su Kitô, hay còn gọi là Adeptus, dù là “Adeptus-exemptus” [5] hoặc là Adeptus-vẫn-chưa-exemptus.
[5] Adeptus-exemptus: Adeptus là đạo sư, còn về Adeptus-exemptus thầy nói như sau:
“Các bạn có biết Adeptus Exemptus là gì không? Đấy là một Adeptus đã trả hết nghiệp rồi, không còn nợ nghiệp nữa. Trong huyền học thì đó gọi là ‘Adeptus Exemptus’”.
(Trích từ bài giảng “La Piedra Filosofal” của Samael Aun Weor)

Rõ ràng, Parsifal cũng có Đức Mẹ Thiêng Liêng của mình, đó chính là Herzeleide. [6] Amfortas, vua chén thánh, có một vết thương bên sườn, một vết thương nặng rỉ cả máu và nước. [7] Đó là do một ngày nọ, nhân vật Kundry, một loại Mađalêna cám dỗ, đã làm vua chén thánh Amfortas ngã vào vòng tay gợi cảm của cô. Trong khi ông ngã vào vòng tay của cô, Klingsor đã giật ngọn giáo ra khỏi tay Amfortas và dùng ngọn giáo để đâm Amfortas bị thương. Các môn đệ của Amfortas luôn đến rửa vết thương cho ông ở một hồ nước gần đó mà vết thương vẫn không lành.
[6] Herzeleide, Amfortas, Klingsor, Kundry – các tên riêng này là những nhân vật trong ca kịch Parsifal của Wagner.
[7] Vết thương bên sườn chảy cả máu và nước – “Nhưng khi đến chỗ Chúa Giê-su, họ thấy Ngài đã chết nên không đánh gãy chân ngài. Tuy nhiên, một tên lính lấy giáo đâm vào sườn Ngài, máu và nước liền chảy ra.” (Giăng 19:33-34, Kinh Thánh)
Các anh chị em thân mến, hãy biết rằng bản thân ngọn giáo là một biểu tượng tính dục của Tantra. Điều này có nghĩa là người đàn ông đó đã sa ngã; tuy nhiên, Parsifal đã được cứu. Parsifal cũng đã suýt trở thành nạn nhân của Kundry, Gundrigia, Salome, nhưng may thay trong thời khắc quan trọng đó anh ta đã nhớ đến vua Amfortas cùng vết thương của ông. Anh ấy đã cầu cứu sự giúp đỡ từ Herzeleide, Mẹ của mình cùng Đấng Kitô Cứu Thế, và hiển nhiên đã nhận được sự trợ giúp.
Đến lượt mình trong vở ca kịch của Wagner, Kundry đã hát bằng một giọng ca trầm bổng, thỉnh cầu sự giúp đỡ từ Klingsor tàn bạo, kẻ đã sử dụng cô cho những mục đích tai ác của mình. Rồi ông ta xuất hiện, phóng ngọn giáo vào Parsifal, nhưng Parsifal đã ở trong trạng thái định; anh ta bắt lấy ngọn giáo và dùng nó vạch dấu Thánh giá [8]; thế rồi lâu đài của Klingsor sụp đổ giữa vách đá cao vời vợi.
[8] Làm dấu thánh giá – tín đồ Kitô-giáo sử dụng dấu thánh giá để trừ ma quỷ.
Parsifal đã chiến thắng trong bài thử thách. Sau đó, anh trở lại lâu đài Monsavalt; ở đó anh áp ngọn giáo vào cạnh sườn của Vua Amfortas và ngay lập tức chữa lành vết thương của ông ta. Thầy nhớ đến nguyên tắc của Hamlet: “Similiam Similius Curando,” (“Lấy độc trị độc”). Nếu ngọn giáo, biểu tượng cho sức mạnh tình dục điện tính của đàn ông, làm cho các vị thần sa ngã, thì cũng chính ngọn giáo đó có thể chữa lành vết thương, đây là sự thật đúng đắn. Ngọn giáo đó có thể giúp trở lại con đường đích thực và đạt đến sự giải thoát cuối cùng.
Parsifal làm dấu thánh giá bằng ngọn giáo. Các bạn đã biết rõ rằng việc đưa Phallus thẳng đứng vào trong Kteis [10] nằm ngang tạo thành hình thập tự. Vì thế, Parsifal làm dấu thánh giá. Chìa khóa của Richard Wagner nằm ở ngay chỗ này, chính tại thời điểm đó, thời điểm của sự giao hợp hóa học hoặc siêu hình, ngay khi bạn có sức mạnh để phá hủy lâu đài của Klingsor, tòa lâu đài mà mỗi người đều mang theo trong mình, trong đó có tất cả mọi con quỷ đỏ của Seth: những con quỷ của giận dữ, tham lam, thèm muốn, đố kị, lười biếng, háu ăn, v.v. và v.v.
[10] Phallus, Kteis (tiếng Hy lạp: φαλλός, κτείς) – Phallus là dương vật và Kteis là âm đạo. Trên biểu tượng thánh giá trục dọc tượng trưng cho năng lực dương và trục ngang cho năng lực âm. Khi kết hợp âm và dương (Phallus với Kteis) thì chúng ta có biểu tượng thánh giá. Các biểu tượng tính dục về sự kết hợp của năng lực âm và dương rất phổ biến trong các nền văn hoá trên thế giới.
Ví dụ, ở Việt Nam người Chămpa xây rất nhiều tượng Linga-Yoni trong các đền thờ và thánh địa cổ xưa. Hãy xem ảnh minh họa ở phía dưới. Hiển nhiên rằng bức tượng này tượng trưng cho sinh thực khí nam và nữ. Tuy nhiên, chúng ta phải nhìn sinh thực khí nam / nữ từ bên trong tử cung thì mới thấy được hình ảnh giống như biểu tượng này. Vì thế cho nên khi người Chămpa đặt bức tượng lingam-yoni ở trong đền thờ thì chúng ta hiểu rằng thánh đường đó là một “tử cung” tâm linh, là chỗ các cơ thể tâm linh được “thụ tinh”.

Chính xác là, trong khoảnh khắc tối cao của sự giao hợp thì chúng ta có thể sử dụng ngọn giáo để tiêu diệt những con quỷ đỏ của Seth. Krumm Heller cũng dạy như vậy, mặc dù ở dạng sơ khai hơn, khi ông nói rằng “nam và nữ, vào thời khắc đỉnh điểm của cuộc giao hợp, họ được bao trùm bởi chính những sức mạnh đã tạo nên vũ trụ”, và “bằng cách giữ lại những sức mạnh này, chúng ta có thể thanh lọc bản thân”. Đó là lời dạy của Krumm Heller, chỉ sơ khai thôi nhưng ông đã dạy giáo lý này.

Người Tây Tạng còn đi xa hơn, họ trực tiếp dạy cách cầm cây giáo để tiêu diệt quỷ đỏ. Bên cạnh đó, có một vị đạo sư vĩ đại đã viết một công trình về phép tình dục, một người Đức rất thông thái, hiểu rõ điểm mấu chốt và lý giải nó. Thế nên, chúng ta có rất nhiều tài liệu, nhưng mọi lời dạy đều được ẩn giấu, và chúng ta phải biết cách trích lấy thông tin từ các văn bản khác nhau, dù chúng bằng tiếng Phạn, tiếng Tây Tạng, hay tiếng Trung Quốc, v.v.
[10] Đạo sư vĩ đại, người Đức – hình như thầy đang nói về Charles Waldemar, tác giả của sách “Magie der Geschlechter”.
Bây giờ thì các bạn đã có chìa khóa, bạn đã biết cách sử dụng nó, và cần phải sử dụng nó để tiêu diệt các cấu trúc tâm lý. Tuy nhiên, chúng ta phải hiểu cấu trúc đó ở tất cả các cấp độ của tâm trí, trước khi trực tiếp diệt trừ nó trong vòng tròn thứ chín của Dante [11].
[11] Vòng tròn thứ chín của Dante – câu này chỉ tác phẩm thần khúc của Dante Alighieri. Trong Gnosis, vòng tròn thứ chính hay là cõi thứ chín chỉ việc luyện khí lực sinh dục, thực hành phép tình dục.
Trong một buổi thuyết giảng ở Machultepec gần đây, thầy đã nói với các bạn rằng tâm trí của con người đã bị biến đổi, tức là nó không còn bình thường. Đó là sự thật. Điều bất hạnh này xảy ra sau khi cơ quan kundabuffer [12] gớm ghiếc bị nhà sinh-hóa học Thiên sứ Loisos, loại bỏ.
[12] Cơ quan Kundabuffer – Câu chuyện và cụm từ này xuất phát từ tác phẩm “Beelzebub’s Tales to his Grandson” của G. I. Gurdjieff. Thầy Samael Aun Weor giải thích thêm ở bài viết này: Cơ quan Kundabuffer
Tổng lãnh Thiên thần Sakaky và phái đoàn tối cao của ông đã mang đến cho nhân loại cơ quan Kundabuffer gớm ghiếc, với mục đích ổn định lớp vỏ địa chất của Trái Đất. Người ta đã đạt được mục đích này, nhưng đã có một lỗi trong các phép tính toán học siêu hạn. Cơ quan này đã bị loại bỏ ở thời đại Lemuria, nhưng đã quá muộn; và hệ quả là những thứ tệ hại, tiêu cực, là các “cấu trúc tâm lý vô nhân tính”, đã được thiết lập vững chắc trong năm trung tâm tâm lý của cỗ máy cơ thể.
Kể từ đó, do lỗi cụ thể này mà tinh chất đã bị kẹt lại giữa những yếu tố không mong muốn mà chúng ta mang trong mình; tâm thức, tinh chất, Phật tính, cái yếu tố thuần khiết nhất mà chúng ta có, đã bị thay đổi. Kể từ đó, một trạng thái tâm lý bất thường đã được thiết lập trong chúng ta, bởi vì khi vật liệu tâm lý, tức là Phật tính hay Tinh chất kia, bị mắc kẹt trong các yếu tố tâm lý phi nhân tính thì kết quả này là điều không thể tránh khỏi.
Tuy nhiên, như thầy đã nói với các bạn trong buổi nói chuyện tại Machultepec, một người không thể nhận ra rằng mình bất thường hay mất cân bằng chừng nào họ còn chưa loại bỏ được các cấu trúc tâm lý. Khi một người đã làm tan rã triệt để tất cả các yếu tố không mong muốn bên trong thì tinh chất trong người đó sẽ trở lại bình thường, tâm của người đó trở lại trạng thái bình thường. Một khi trạng thái bình thường đã được thiết lập ở bên trong thì hiển nhiên người đó sẽ nhận ra được sự bất thường của đồng loại.
Từ xa xưa, một trạng thái tâm lý bất thường đã được thiết lập ở bên trong chúng ta. Nghĩa là, khi vật liệu tâm lý, tức Phật tính hay tinh chất, bị giam cầm bên trong các yếu tố tâm lý phi nhân tính khác nhau, thì kết quả này là không thể khác đi được. Hiển nhiên, kể từ đó tâm trí của con người đã bị thay đổi, và những sinh vật ba bộ não [14] sống trên bề mặt Trái Đất là bất-bình-thường. Thầy lặp lại từ đó, chậm rãi thế này là để nhấn mạnh.
[14] Sinh vật ba bộ não (tiếng Anh: Three-brained beings): Đây là một cụm từ thường được dùng trong các tác phẩm của G. I. Gurdjieff để chỉ con người.
Điều này rất khó hiểu. Mặc dù bạn chấp nhận nó về mặt lý trí nhưng bạn không ý thức được về những gì bạn đang nghe (nếu không hiểu được dù chỉ là một chút ít về việc tâm thức bình thường hoạt động như thế nào thì việc ý thức được về những gì bạn đang nghe là điều không thể.
Tất nhiên, các bạn tin rằng mình bình thường, và thầy không trách các bạn; tuy thế thầy lại thấy các bạn bất thường. Tại sao? Bởi vì Bản thể bên trong thầy đã làm tan rã các yếu tố tâm lý không mong muốn, những yếu tố bất thường trong thầy. Chỉ sau khi hoàn thành việc này thì thầy mới có thể tự mình trải nghiệm và trực tiếp nhận ra sự thật rõ ràng về sự bất thường trong tâm của đồng loại chúng ta. Kể từ đó, thầy nhận thấy rằng những người xung quanh đang bị mất cân bằng; thầy cảm thấy như mình đã đi ngủ trong một cái nhà thương điên gọi là Trái Đất.
Bây giờ các bạn có thể tự giải thích nguyên nhân của các cuộc chiến tranh, v.v. Nhiều khi, chỉ cần một thảm họa vũ trụ là đủ để tạo ra những đợt sóng vũ trụ kinh hoàng; những con sóng này chạm đến bộ não của những cỗ máy hữu cơ được gọi nhầm là con người, và những cỗ máy này – vốn đã không bình thường – lao vào cuộc chiến. Nếu bình thường thì họ đã không làm điều đó, nhưng họ lại bất thường. Họ phất cao những lá cờ khác nhau. Họ viện cớ này nọ để biện minh cho trận chiến của mình. Họ tưởng rằng mình bình thường, nhưng thực tế họ làm tất cả những điều này chính bởi vì họ bất bình thường. Một sự xung khắc giữa các hành tinh cũng đủ để kích động một cuộc chiến tranh. Hàng triệu sinh vật mang hình người chống lại hàng triệu sinh vật mang hình người khác.
Bạn bè thì thường yêu thương, trân trọng lẫn nhau; nhưng chẳng bao lâu thì vì lý do này hay lý do nọ mà họ lại gây gổ và tình bạn đó chấm dứt. Khi phân tích thì chúng ta thấy rằng nguyên nhân dẫn đến sự tan vỡ của tình bạn là những điều vô lý, những thứ chẳng có gì là quan trọng cả. Có những người trông rất đáng kính, rất nghiêm nghị, nhưng cuối cùng họ lại làm những điều vô nghĩa, vớ vẩn. Tất cả những điều này là kết quả của sự bất thường, tất cả những điều này đều là những vấn đề của sự bất thường.
Có khi hai người đang hạnh phúc, đầy hòa thuận, cảm thấy tất cả đều đẹp đẽ và thanh bình, nhưng rồi một người nghe thấy một câu chữ nào đó mà anh ta diễn dịch nó theo cách của mình, một cách tiêu cực, và rồi anh ta nổi giận. Thế là anh ta nói ra những lời làm tổn thương người kia và cuối cùng, như cách trong nhà thầy hay nói, họ “thay bát đĩa” [15] Thực sự là không còn cách nào khác, nhưng tại sao các đôi vợ chồng lại phải “thay bát đĩa” như thế? Những cái đĩa, cái cốc chén ấy có tội tình gì đâu! Chà, đây chỉ là sự bất bình thường mà thôi!
[15] Thay bát đĩa – khi hai vợ chồng bỏ nhau thì họ phải mua dụng cụ bếp khác để sống ở hai nhà riêng.
Trong những điều kiện bất thường như vậy, làm thế nào mà những sinh vật mang hình người có thể yêu thương nhau được? Làm sao mà những cuộc hôn nhân có thể kéo dài đến đầu bạc răng long được? Đối với thầy điều đó thực sự khó khăn. Đàn ông không bình thường. Phụ nữ cũng không bình thường. Thầy không thể hiểu nổi làm sao mà họ có thể cùng tồn tại bên nhau được.
Rõ ràng là những sinh vật ba bộ não trên Trái Đất không hoàn toàn giống những sinh vật ba não trên các hành tinh khác. Chắc chắn là những hành tinh khác cũng có người, và như thầy đã nói với các bạn thì họ rất quan tâm đến việc nghiên cứu những điều bất thường này.
Những người ngoài hành tinh đưa con người vào phòng thí nghiệm ở bên trong tàu vũ trụ của mình để nghiên cứu một cách kỹ càng. Những hành động cư xử một cách kỳ lạ của con người trên Trái Đất đã thu hút sự chú ý của toàn thể vũ trụ: con người không có sự hòa hợp, họ không kiểm soát được ngôn từ của mình; họ tranh cãi về từng điều vớ vẩn, và họ cãi nhau vô cớ.
Thỉnh thoảng một số người bị “bắt cóc”, tất nhiên là bị bắt lên một con tàu vũ trụ. Thầy muốn nói rằng các bạn hãy tha thứ cho những người anh em ngoài Trái Đất của chúng ta khi họ bắt một ai đó đi. Họ luôn mang người đó trở lại. Nhưng khi họ bắt một người đi là vì hai mục đích: thứ nhất là để phối giống con người với những người từ thế giới khác, vì chủng tộc thứ sáu đang được tạo ra [ở những nơi ngoài giới hạn quan sát của chúng ta]. mục đích còn lại là để nghiên cứu sự bất thường của con người trên Trái Đất.
Con người trên Trái Đất kỳ lạ đến nỗi khắp vũ trụ phải kinh ngạc. Đó chính là lý do tại sao người ngoài hành tinh đã bắt cóc rất nhiều người Trái Đất và họ sẽ tiếp tục làm như vậy để đem người Trái Đất về nghiên cứu trong các phòng thí nghiệm. Như thầy hay nói với các bạn, họ dùng người Trái Đất như những con chuột bạch để nghiên cứu trong phòng thí nghiệm với thấu kính hay thuốc thử, v.v. Tóm lại, họ quan sát con người để thấy, để cố gắng hiểu rõ mọi quá trình tâm sinh lý của những sự bất thường này. Sau đó, con người lại được đưa trở về nơi mà họ đã bị bắt đi.
Nhưng thầy nhắc lại là một người sẽ không nhận thức được những trạng thái bất thường này chừng nào họ vẫn còn có các “cấu trúc tâm lý” ở bên trong mình. Có thể các bạn đang nghe thầy. Ừ, thầy biết rằng các bạn đang lắng nghe thầy, nhưng thầy hoàn toàn chắc chắn rằng các bạn không nhận thức được những gì thầy đang nói và rằng mặc dù bạn đang lắng nghe thầy nhưng các bạn vẫn tiếp tục tin rằng bên trong mình, trong sâu thẳm của tâm, mình vẫn bình thường; và thầy không thể lên án các bạn về điều đó, thầy không khen chê gì các bạn.
Các bạn không biết được tâm của mình đang ở trạng thái nào; nhưng khi các bạn tiêu diệt được cái tôi, khi bạn tiêu biến nó thành cát bụi vũ trụ thì bạn sẽ đạt được trạng thái bình thường. Chỉ khi đến ngày đó thì các bạn mới nhận ra được rằng trước đây mình đã bất thường như thế nào; chỉ đến ngày đó mà thôi; còn trước ngày đó thì việc này là không thể.
Vậy nên những người anh em thân mến của thầy, trong buổi nói chuyện tối nay thì thầy muốn mời các bạn tìm lại sự bình thường trong tâm của mình. Thầy muốn các bạn hiểu được sự cần thiết của đoạn diệt của Phật giáo. Như vậy, thầy đã nói với các bạn rằng cái Tôi của từng người trong các bạn không bao giờ muốn chết đi cả.
Thầy lấy làm lạ rằng các bạn có đủ kiên nhẫn để lắng nghe thầy. Thầy thậm chí còn ngạc nhiên, bởi vì cái tôi trong các bạn chắc hẳn đang xem thầy như một con quỷ kinh tởm. Thật rõ ràng: đối với các bạn thì thầy chính là cái chết, tên thật của thầy là “sự chết chóc” cho cái tôi trong các bạn; và cái tôi của các bạn hẳn là không thích điều đó.
Rõ ràng, bạn nghe được những lời nói đó và tự nhủ, “Chà, đây chưa phải là lúc để chết; còn lâu mới đến lúc ấy”, “Ta cứ phải chờ đã, một ngày nào đó rồi ta cũng sẽ chết”, “Có thể lời thầy nói là đúng, cũng có thể thầy đang phóng đại chút ít”, có nghĩa là, cái tôi đang tìm cớ để trốn tránh điều sẽ xảy đến với nó: cái chết. Cái tôi không thích những thần chết như thầy; nó muốn sống, không đời nào nó muốn chết đi cả.
Vì vậy, hỡi anh em trong trường phái Gnosis thân mến, vì thầy biết hiện trạng của các bạn như thế nào nên thầy muốn mọi người học. Các bạn sẽ học bằng cách bắt chước thầy. Bằng cách đó thầy sẽ đào tạo để các bạn có thể tự rèn luyện. Điều cần thiết là các bạn phải liên tục quyết tâm và không thay đổi mục tiêu của mình, bởi vì nguy cơ là cái tôi không muốn làm điều đó. Trong tình trạng thế này nếu các bạn chính là cái tôi thì làm sao các bạn lại muốn làm điều đó được? Điều duy nhất có thể giúp các bạn được giải thoát là học ngay và thực hành ngay. Các bạn cần nghiên cứu những cuốn sách này của thầy, cuốn “The Great Rebellion”, cũng như cuốn “Tâm Lý Học Cho Sự Chuyển Hóa Triệt Để”.
Thầy đã chất vấn một số bạn; Thầy đã hỏi họ: “Mọi người đã học cuốn sách ‘The Great Rebellion’ của thầy chưa?”
Và họ nói là “Rồi, chúng con đã đọc qua cuốn sách đó rồi“.
“Nhưng mọi người đã thực sự nghiên cứu cuốn sách đó chưa?”
“Chà, đọc như kiểu nghiên cứu thì chưa. Chúng con đã đọc nó với tốc độ phi mã“.
Thế là thầy vô cùng kinh hãi. Để có thể viết cuốn sách “The Great Rebellion” cũng như cuốn “Tâm Lý Học Cho Sự Chuyển Hóa Triệt Để”, thầy đã phải bỏ ra biết bao nhiêu năm, và họ chỉ đọc lướt trong vòng hai tiếng đồng hồ như thể họ đã biết hết rồi vậy.
Họ liên tục tiếp cận thầy để nói: “Tôi muốn tự rèn luyện, tôi muốn tan rã cái tôi, nhưng tôi cũng muốn thầy dạy cho tôi“. Nhưng, cái tâm của loài người trên Trái đất này mới bất thường làm sao: họ yêu cầu thầy dạy họ cách làm tan rã cái tôi sau khi họ đã đọc cuốn sách “Tâm Lý Học Cho Sự Chuyển Hóa Triệt Để” của thầy! Nhưng thế này là sao? Trong cuốn sách đó thầy đã đưa ra hết mọi chỉ dẫn rồi, và giờ họ lại yêu cầu thầy dạy họ! Chuyện gì vậy? Họ đã hoàn toàn hủy hoại trung tâm lý trí rồi!
Ví dụ như ở Atlantis hoặc ở Lemuria, không ai học theo cách đó. Một người Lemuria coi các chữ cái là linh thiêng, họ sử dụng một bảng chữ cái có 300 phụ âm và 51 nguyên âm. Ở Lemuria các chữ cái là linh thiêng, và không ai chấp nhận một đoạn văn nào của bất kỳ cuốn sách thánh nào nếu trước đó họ không tự ý thức về đoạn văn đó, và để tự ý thức được điều đó thì họ đã dành cả ngày để thiền. [16] Sau đó thì họ mới ý thức được về những gì họ đang học.
[16] Người Lemuria ngồi thiền cả ngày để “ý thức” về một đoạn trong sách – Không ai phải mất cả ngày ngồi thiền chỉ để hiểu một đoạn văn theo nghĩa đen. Người ta muốn hiểu những ý nghĩa sâu sắc hơn, những ý nghĩa vượt ra ngoài khả năng của lý trí, những ý nghĩa bí mật được ẩn giấu trong đó. Nếu biết cách đọc với ý thức thì các đoạn văn trong sách thánh có thể khai sáng tâm thức một cách kỳ diệu, đem lại các trải nghiệm đặc biệt trong thế giới tâm linh.
Khi người ta đọc sách với tốc độ chóng mặt như thế thì câu chữ vào tai này ra tai nọ, và rồi họ nói “Tôi đã đọc cuốn đấy rồi“, “Tôi đã biết cuốn đấy rồi“. Trung tâm lý trí đã hoàn toàn bị hủy hoại. Các bạn không nên học như thế. Nếu các bạn chưa ý thức được đoạn trước thì không nên tiếp tục hay chuyển sang đoạn tiếp theo. Chúng ta cần biết mình đang đưa cái gì vào trung tâm lý trí.
Vào một dịp nọ, trong khi đi du lịch ở một số quốc gia Nam Mỹ, thầy đã gặp một người dân tộc thiểu số sống gần Summum Supremum Sanctuarium [17]. Anh ấy là một Mama (một vị tương tự như “Mahatma” [18], [18.5]), một người đàn ông dáng dấp nhỏ bé với chiều cao không quá một mét vài phân. Anh ấy có mái tóc dài, bộ râu đen dài, người quấn trong một chiếc áo choàng (anh ấy trông giống một phiên bản gầy gò của Chúa Kitô).
[17] Summum Supremum Sanctuarium là đền thờ đầu tiên được các đệ tử của thầy Samael xây dựng ở miền núi Colombia.
[18] Mahātmā (tiếng Bắc Phạn) – thánh sư. Mahātmā = mahā (vĩ đại) + ātman (Bản Thể, linh hồn)”
[18.5] Phim này giải thích thêm về cuộc sống của các Mama: Lời cảnh báo của người Anh cả Kogi
Anh ấy bắt đầu nói chuyện với thầy về những chủ đề mà thầy đã viết trong cuốn “The Revolution of Beelzebub”. Thầy nói với anh ta: “Anh Bernardino Alfaro Torres à, chuyện này là thế nào?” (Một Nhà truyền giáo đã đặt pháp danh này cho anh ta bằng tiếng Latinh.) “Chuyện này là thế nào?”, thầy hỏi, “Nếu anh không biết đọc biết viết, nếu anh không biết chữ, thì làm thế nào mà anh lại có kiến thức về cuốn sách ‘The Revolution of Beelzebub’ của tôi được?”
“Thưa ông, chúng tôi, bộ tộc của những Mama, không cần đọc sách mà chúng tôi nghiên cứu điều này ở thế giới cảm xúc. Cuốn sách The Revolution of Beelzebub là một cuốn sách từ Nữ thần của Thế giới Tự nhiên và chúng tôi đặt nó trên bàn thờ của các đền-thánh địa của chúng tôi.”
Người này thật đáng nể: anh ta biết toàn bộ nội dung của cuốn sách, anh ta nói về Niết bàn, về một “thành phố vàng” ở thế giới Niết bàn.
Chúng tôi quen hai vị đạo sư thông thái đầy quyền năng nhưng hoàn toàn không biết chữ. Một người là người dân tộc thiểu số bản địa. Đó là anh Bernardino Alfaro Torres, đến từ Sierra Nevada de Santa Marta ở Colombia. Người còn lại là đạo sư quyền năng Litelantes, một bậc thầy vĩ đại của công lý vũ trụ. [19] Hai điểm đạo đồ đầy quyền năng này được hưởng đặc ân là sở hữu một ý thức liên tục. Trong những điều kiện đặc ân tương tự thì hai điểm đạo đồ này mang trong mình những giáo lý mà không bao giờ có thể viết ra được, bởi vì những giáo lý ấy sẽ trở nên tầm thường nếu chúng được viết ra.
[19] Litelantes là vợ của thầy Samael.
Có lần thầy đã ngồi tọa đàm với một số người dân tộc Arhuaco. Họ nói về nghiệp và cách họ nói không giống cách các thành viên của hội Thông Thiên Học, hay những người theo thuyết Rosicrucian giả, hoặc những người kiểu như vậy nói, không giống vậy. Thật kỳ lạ khi ta quan sát hai người dân tộc Arhuaco nói chuyện trong quán cà phê. Giống như họ đang nói về công việc kinh doanh:
“Tôi nợ rất nhiều, một ông bạn nào đó đã cho tôi vay, và tôi chưa biết cách trả lại như thế nào.”
“Tôi đã trả hết 500 peso cuối cùng của khoản nợ, vì thế cho nên tôi nghĩ là sẽ không có vấn đề gì cả, người ta sẽ đồng ý cho vay thôi”. [20]
“Đúng rồi, tôi đã trả hết một số khoản nợ và sau khi thanh toán hết những hóa đơn đó, tôi sẽ xem liệu tôi có đi vay được hay không, vì tôi cần khoản vay cho công việc của mình.”
[20] Người ta sẽ đồng ý cho vay – hai người dân tộc này có khả năng nói chuyện với các vị Phật. Họ đang nói về việc trả nợ nghiệp. Họ xin các vị “cho vay nghiệp” để tránh một sự kiện đau khổ trong đời nhưng sau đó họ phải tìm cách nào khác để trả nợ, ví dụ như làm việc từ thiện.
Vâng, tất cả mọi thứ đều xoay quanh chủ đề kinh doanh. Bất kỳ người bình thường nào cũng sẽ tin rằng họ đang nói về kinh doanh; nhưng không phải vậy: họ đang nói về những việc liên quan đến Luật, về Karma và Dharma [21], và họ đã làm điều đó tốt hơn bất kỳ nhà huyền học giả nào, hơn bất kỳ nhà huyền bí giả hiện đại nào hoặc bất kỳ người uyên bác nào, tốt hơn Annie Besant và những người theo cô ấy.
[21] Karma và Dharma – Đạo Bà La Môn sử dụng từ Karma để chỉ nghiệp tiêu cực và Dharma để chỉ nghiệp tích cực.
Họ thực tế một trăm phần trăm, và họ nghiên cứu sách của thầy bằng cách ngồi thiền. Vì họ không thể đọc hoặc viết nên họ phải thông qua thiền; và kể cả những người có thể đọc và viết thì họ đọc và sau đó họ đắm chìm trong thiền; nhưng hầu hết bọn họ không biết đọc biết viết. Họ đã không huỷ hoại trung tâm lý trí của mình như cách mà những người “văn minh”, những người được người Sierra Nevada gọi là “bonachis”, đã làm.
Anh Bernardino (người Arhuaco đó) nói với thầy: “Những người bonachis đó nghĩ rằng họ rất có văn hóa, rất văn minh, bởi vì họ có những phát minh lẻ tẻ như ô tô, máy bay và tàu thuỷ, những món đồ chơi không có giá trị, nhưng họ không biết gì về những bí ẩn của sự sống và cái chết”.
Họ biết gì về người bản địa kia, một người đã thật sự được khai sáng? Vì vậy, này các bạn thân mến, đừng phá hủy trung tâm lý trí, cũng đừng phá hủy trung tâm cảm xúc.
Trước khi trung tâm cảm xúc có thể làm được bất cứ điều gì thì trước hết cảm xúc đó phải đi qua bộ lọc của sự thấu hiểu. Chúng ta phải nhận thức được mọi hiểu biết của chúng ta, về mọi thứ chúng ta nghiên cứu, hoặc về mọi thứ xảy đến với chúng ta.
Nếu bạn nghiên cứu cẩn thận cuốn “Tâm Lý Học Cho Sự Chuyển Hóa Triệt Để” và cuốn “The Great Rebellion” của thầy, và áp dụng kiến thức đó vào thực tế thì thầy nhân danh sự thật mà nói với bạn rằng bạn sẽ đạt được đoạn diệt Phật giáo. Sau đó, bạn sẽ thiết lập một tâm lý bình thường trong tâm của bạn, trong chính bạn, bạn sẽ hòa hợp với tất cả các sinh vật ba bộ não trong vũ trụ. Tự bạn sẽ có thể trực tiếp trải nghiệm một thực tại vượt ra ngoài thời gian, cái thực tại mà vượt ra ngoài cả cơ thể, tình cảm và tâm trí.
Bài nói của thầy đến đây là hết. Nếu có bạn nào muốn nói gì hay hỏi gì liên quan đến bài nói này thì các bạn hãy tự nhiên. Thầy chỉ mong các bạn đừng lạc đề.
Hỏi: Thưa thầy, thầy đã nhắc đến cơ quan Kundabuffer ghê tởm. Sự bất thường trong tâm của chúng ta có phải xuất phát từ đó không?
Đáp: À, thực sự mà nói thì đó là nơi bắt nguồn của sự bất thường. Có thể nói rằng bởi vì cơ quan Kundabuffer đáng ghê tởm đó đã kết tinh trong tâm của chúng ta nên tất cả những hệ quả xấu đều bắt nguồn từ đấy.
Có nghĩa là, các cấu trúc tâm lý tồn tại là do cơ quan Kundabuffer ghê tởm đó; nếu không, chúng đã không tồn tại rồi. Thật không may là tâm thức lại bị kìm nén bên trong những cấu trúc này; vì thế mà tâm thức trở nên không bình thường. Tâm thức [trong chúng ta bây giờ] chính là tâm lý, mà tâm lý thì lại hoạt động không bình thường như vậy đó.
Người trên Trái đất thật bất thường, họ chính là những ca lâm sàng hiện đang được tất cả những người anh em trong Hệ Mặt Trời nghiên cứu. Đó là một trong những nguyên nhân, một trong những lý do chính khiến những người ngoài hành tinh đưa một công dân trái đất vào phòng thí nghiệm vũ trụ của mình để nghiên cứu.
Trạng thái bất thường của người trái đất đã thu hút nhiều sự chú ý trên khắp vũ trụ: tâm lý kỳ lạ của họ, hành vi kỳ lạ của họ, không liên quan đến bất kỳ nền văn hóa vũ trụ nào trong không gian vô tận. Nhưng thật không may, tất cả sự bất thường này đều là do “cơ quan Kundabuffer” ghê tởm gây ra.
Hỏi: Thưa thầy, có phải tất cả loài người đều sa ngã không? Hay có những người vẫn gìn giữ được cấp bậc nguyên thuỷ của họ?
Đáp: À, thật ra thì vẫn có những người đích thực, những người không sa ngã và gìn giữ được sự bình thường của mình.
Hỏi: Từ thời nào ạ?
Đáp: Các bạn vẫn biết rằng đối với cư dân của thế giới ba chiều của hình học Euclid thì không phải tất cả mọi thứ họ đều có thể nhìn thấy được. Trong không gian chiều thứ tư của hành tinh Trái Đất của chúng ta, có những chủng tộc khác bằng xương bằng thịt bình thường, nhưng họ chưa từng phát triển cơ quan Kundabuffer đáng ghê tởm ấy và họ vẫn sinh sản bằng Kriyashakti [22]. Vì vậy, chỉ những người sống trong thế giới ba chiều của hình học Euclid, những người thường được gọi là “người Trái Đất” là bất thường mà thôi.
[22] Kriyashakti (tiếng Phạn) – Kriyā: Hành động, công việc + Śakti: khả năng, sức mạnh. Tức là họ sử dụng sức mạnh tâm linh để thụ thai; không cần xuất tinh dịch hay đặt tới co thắt tình dục khi hai vợ chồng quan hệ với nhau.
Hỏi: Thưa thầy, trong nghi thức Gnosis cấp độ thứ Ba, nghi thức chúng ta biết là xuất phát từ trí tuệ của người Ai Cập, có những câu như sau: “Tôi, người đã qua đời, nhắc lại cùng một ngôn từ bốn lần”, và “Tôi hy vọng rằng kẻ thù của mình sẽ bị lật đổ và sẽ tiêu tan”, và “những con quỷ đỏ của Seth [23] sẽ bị đưa đến sự hủy diệt vĩ đại của vực thẳm và hư vô”. Ý nghĩa của “những ngôn từ được nhắc lại bốn lần” ở đây là gì?
[23] Quỷ đỏ của Seth – là những cái tôi, các cấu trúc tâm lý được Phật giáo gọi là hành.
Đáp: Rõ ràng là chúng ta phải nói ra những ngôn từ đó để cơ thể vật chất có thể hoạt động một cách chính xác; ngôn từ đến từ Ngôi lời và là nguồn gốc của cơ thể cảm xúc. Ngôn từ là nguồn gốc của cơ thể lý trí. Ngôn từ là nguồn gốc của cơ thể ý chí thức tỉnh. Vì vậy, Ngôi lời được biểu lộ dưới bốn hình thức đó, để khởi nguồn cho bốn lần sinh [24].
[24] Bốn lần sinh – Chúng ta phải sinh ra 4 lần với 4 cơ thể: cơ thể vật chất, cơ thể cảm xúc, cơ thể lý trí, cơ thể căn nguyên.
Chúa Giê-su đáp: “Quả thật, quả thật, tôi nói với anh, nếu ai không được sinh bởi nước và thần khí thì không thể vào Nước Đức Chúa Trời. Ai được sinh bởi xác thịt là con cái loài người, ai được sinh bởi thần khí là con cái Đức Chúa Trời. Đừng ngạc nhiên vì tôi đã nói với anh: Anh em phải được sinh lại.
(Giăng 3:5-7, Kinh thánh)
Còn đối với “những kẻ thù”, những con “quỷ đỏ của Seth”, thứ phải bị tiêu diệt trong vực thẳm và hư vô thì hiển nhiên là ta phải làm như vậy, ta phải tiêu diệt chúng. Bây giờ, nếu chúng ta không đủ khả năng, nếu chúng ta không tập trung tiêu diệt cái tôi, cái ác cùng với tất cả những yếu tố không mong muốn của chúng ta thì thế giới tự nhiên sẽ đảm nhiệm việc đó trong cõi địa ngục, trong thế giới ngầm dưới lòng đất, nơi chỉ có tiếng khóc và tiếng nghiến răng cót két.
Thầy không khuyên các bạn đi xuống những vùng đó vì các bạn sẽ rất đau khổ. Đúng thật, các bạn sẽ đạt được sự tan rã của cái tôi trong các thế giới địa ngục; các bạn sẽ có thể thoát ra khỏi những cái tôi sau hàng nghìn năm, nhưng thầy không khuyên các bạn làm vậy, bởi vì các bạn sẽ phải chịu đựng rất nhiều điều ở đó. Ở thế giới dưới đó, có một loại vật chất đáng sợ, ở đó mọi thứ đều đặc hơn, thô hơn. Tốt hơn là các bạn nên rèn luyện ngay bây giờ, nhưng nếu bạn không muốn rèn luyện bây giờ thì thế giới tự nhiên sẽ làm việc này cho bạn ở thế giới ngầm đó.